Chủ nghĩa bảo thủ (
tiếng Pháp: conservatisme,
tiếng Anh:conservatism, gốc từ
tiếng Latinh conservo — giữ gìn) là các
triết lý chính trị và
xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền thống trong bối cảnh
văn hóa và
văn minh. Các nguyên lý trung tâm của chủ nghĩa bảo thủ bao gồm
truyền thống,
xã hội hữu cơ,
hệ thống phân cấp,
quyền hạn và
quyền sở hữu.
[1] Phe bảo thủ tìm cách bảo tồn một loạt các thể chế như
tôn giáo,
chính phủ nghị viện và quyền tài sản, với mục đích nhấn mạnh
sự ổn định và liên tục của
xã hội.
[2] Những người theo chủ nghĩa này đi ngược lại
chủ nghĩa hiện đại và tìm cách quay trở lại "cách thức mọi thứ đã từng tồn tại".
[3][4]Lần đầu tiên thuật ngữ này xuất hiện trong bối cảnh chính trị bắt nguồn từ năm 1818 với
François-René de Chateaubriand [5] trong thời kỳ
Phục hồi Bourbon tìm cách đẩy lùi các chính sách của
Cách mạng Pháp. Trong lịch sử gắn liền với
chính trị cánh hữu, thuật ngữ này đã được sử dụng để mô tả một loạt các quan điểm. Không có một bộ chính sách nào được coi là bảo thủ vì ý nghĩa của chủ nghĩa bảo thủ phụ thuộc vào những gì được coi là truyền thống ở một địa điểm và thời gian nhất định. Do đó, những người bảo thủ từ các khu vực khác nhau trên thế giới, mỗi người ủng hộ truyền thống tương ứng của họ, có thể không đồng ý về một loạt các vấn đề.
Edmund Burke, một chính trị gia thế kỷ 18 phản đối Cách mạng Pháp, nhưng ủng hộ
Cách mạng Mỹ, được coi là một trong những nhà lý luận chính của
chủ nghĩa bảo thủ ở Anh vào những năm 1790.
[6]Theo
Quintin Hogg, Chủ tịch
Đảng Bảo thủ Anh năm 1959: "Chủ nghĩa bảo thủ không phải là một triết lý như một thái độ, một lực lượng không đổi, thực hiện một chức năng vượt thời gian trong sự phát triển của một xã hội tự do, và tương ứng với một sự sâu sắc và lâu dài yêu cầu của bản chất con người ".
[7]Ngày nay, chủ nghĩa bảo thủ được coi là thuộc
cánh hữu. Chủ nghĩa bảo thủ có nhiều sự phân hóa thành các trường phái khác nhau, và do các quốc gia có hoàn cảnh khác nhau nên những người bảo thủ các nước khác nhau về đường lối.